Chuẩn đoán hư hỏng ắc quy.
Điều đầu tiên bạn phải nhớ trước khi chuẩn đoán hư hỏng của hệ thống
khởi động là kiểm tra tình trạng của ắc quy và hệ thống nạp. Nếu ắc quy
bị trục trặc, nó sẽ không tích được điện khi sạc điện và không cung cấp
được đủ dòng điện cho các thiết bị dùng điện trên xe.
Có thể do các tấm
điện phân bên trong đã bị phá hủy hoặc mòn. Bạn hãy sử dụng một vôn-kế
để kiểm tra điện áp nạp của ắc quy, thậm chí có những xe trang bị cả vôn
kế gắn liền để tiện việc kiểm tra.
Vôn-kế đo điện áp gắn liền chỉ đo
giá trị điện áp của một tấm điện phân bên trong chứ không phải là điện
áp của cả sáu lõi nên nếu chỉ nhìn vào vôn kế cũng không thể khẳng định
được rằng cả sáu lõi đều còn tốt
Khi
ắc quy được nạp đầy, vôn-kế chỉ giá trị khoảng 12,6V. Nếu bạn đọc được
chỉ số vôn-kế khoảng 12,4 V thì lượng điện trong ắc quy mới đạt được
75%. Để đảm bảo tốt nhất, bạn nên kiểm tra một lần nữa nhưng bất kể thế
nào nếu đọc được chỉ số thấp hơn tiêu chuẩn thì phải nạp lại ắc quy.
Điện áp ắc quy và tình trạng nạp:
12.68v . . . . . . . . . . 100%
12.45v . . . . . . . . . . 75%
12.24v . . . . . . . . . . 50%
12.06v . . . . . . . . . . 25%
11.89v . . . . . . . . . . 0%
Các
ắc quy axit-chì phải được bảo dưỡng và duy trì điện áp đầy một cách
liên tục để tránh làm hỏng các tấm điện cực chì bên trong. Nếu có điều
kiện, bạn hãy để ắc quy sạc liên tục trong vài ngày. Nếu các tấm điện
cực của ắc quy bị sunphát hóa thì ắc quy sẽ không thể sạc đầy. Điều này
làm giảm điện áp của ắc quy cũng như rút ngắn tuổi thọ của ắc quy.
Nếu
ắc quy bị hết điện hoặc bị chết, bạn nên kiểm tra lại xem ắc quy còn
tốt hay đã hỏng hẳn. Nếu bạn có thiết bị kiểm tra ắc quy có trụ than
hoạt tính thì hãy sạc lại ắc quy cho đầy trước khi kiểm tra để đạt được
độ chính xác cao, kiểm tra mực nước của dung dịch điện phân. Nếu dung
dịch còn đầy thì tiến hành sạc lại ắc quy và kiểm tra lại tình trạng sau
khi sạc.
Khi muốn thử tải ắc quy, đặc biệt là thử cường độ dòng khởi động
(CCA) khi ắc quy còn lạnh, điện áp của ắc quy phải còn trên 9,6V. Nếu nó
không thể duy trì mức điện áp nhỏ nhất theo yêu cầu trên thì chứng tỏ
ắc quy đã bị hỏng. Để chắc chắn, bạn có thể sạc lại rồi kiểm tra lại sau
ba phút sạc. Nếu điện áp lớn hơn 15,5V, ắc quy không thể sạc tiếp được.
Đôi khi việc sạc kéo dài khoảng 20 giờ có thể đảo ngược sự hoạt hóa và
cứu được ắc quy, nếu không bắt buộc phải thay ắc quy.
Có
một cách khác nhanh và dễ dàng hơn để kiểm tra ắc quy là sử dụng đồng
hồ điện tử để kiểm tra ắc quy. Cách này không yêu cầu ắc quy phải nạp
đầy để đảm bảo kết quả đo chính xác. Một số đồng hồ điện tử chuyên dụng
đo mức độ dẫn điện của ắc quy để dự đoán tình trạng của ắc quy. Nó gửi
tín hiệu thông qua ắc quy để nhận biết diện tích tấm điện cực, thể tích
là bao nhiêu và khả năng cấp điện ra sao. Khi một ắc quy có tuổi thọ
cao, độ dẫn điện của nó bị sụt giảm. Các khuyết tật của các tấm điện cực
ắc quy như quá ngắn, hở ra ra hay các khuyết tật khác cũng ảnh hưởng
đến độ dẫn điện của ắc quy. Bởi vậy, các kết quả đo sẽ xác định chính
xác tính trạng của ắc quy.
Nhiều đồng hồ điện tử cũng có thể phân tích dòng khởi động của ắc
quy. Các kết quả đo được sử dụng để tính toán tuổi thọ của ắc quy. Một
số thiết bị kiểm tra cho phép bạn đo được số lượng ampe cấp cho máy đề
trong khi khởi động xe và phân tích công suất hệ thống nạp dưới điều
kiện có tải.
Sử dụng đồng hồ đo ắc quy điện tử, bạn có thể phân tích được tình
trạng tiếp xúc của các điểm tiếp mát bằng cách đo cường độ dòng khởi
động của ắc quy ở các cực. Sau đó lặp lại việc kiểm tra với một điểm
tiếp mát trên máy hoặc đâu đó. Nếu kết quả đo có sự sai lệch khoảng 25% ở
cường độ dòng khởi động thì chứng tỏ điện cực tiếp mát không tốt.
Bạn có thể sử dụng vôn-kế để kiểm tra sự sụt áp dọc theo đường dây
dẫn đến ắc quy. Nếu mức độ sụt áp khoảng 0,4V, chúng tôi khuyên bạn nên
làm sạch lại các điểm tiếp xúc với các cực ắc quy. Việc không quan tâm
đến các phương pháp kiểm tra hoặc các thiết bị được dùng để kiểm tra
tình trạng của ắc quy để đảm bảo ắc quy ở tình trạng tốt nhất luôn là
một thiếu sót đối với những người sử dụng xe.
Khi nhiệt độ môi trường giảm đi, đặc biệt là ở xứ lạnh ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động của ắc quy. Thời tiết lạnh làm tăng sự biến dạng của
ắc quy, hệ thống khởi động và nạp có xu hướng hoạt động yếu đi.
Bên
cạnh đó nhiệt độ không khí giảm làm cho dầu bôi trơn đặc quánh lại và
làm cản trở trục khuỷu. Thông thường để làm quay trục khuỷu, ắc quy phải
cung cấp một dòng điện từ 125 đến 200A hoặc lớn hơn nữa tùy thuộc vào
dung tích động cơ, lực nén và nhiệt độ. Ở nhiệt độ OoF, con số này có
thể tăng lên từ 200 đến 250A tùy thuộc vào độ nhớt của dầu bôi trơn
trong cácte.
Nhiệt độ càng giảm đi, khả năng cấp điện của ắc quy càng giảm. Ở
nhiệt độ 00F, hầu hết các ắc quy chỉ có thể cấp ra khoảng 65% dòng điện
để khởi động động cơ Ở - 200F, năng lượng cấp ra từ ắc quy chỉ còn một
nửa. (Vấn đề này ở Việt Nam không đáng quan tâm).
Một ắc quy sẽ không thể cấp đủ dòng điện nếu nó không được bảo dưỡng
thường xuyên hoặc sạc điện không đầy. Đặc biệt là khi nhiệt độ bên
ngoài giảm và dẫn đến giảm khả năng cấp điện của ắc quy. Bởi vậy để đảm
bảo hệ thống khởi động làm việc tin cậy thì hệ thống nạp phải làm việc
tốt. Hệ thống nạp có thể đảm bảo giữ cho ắc quy luôn ở tình trạng sạc
đầy và cũng cung cấp đủ dòng điện phù hợp với yêu cầu của các thiết bị
điện trên xe.
Nếu điện áp của ắc quy quá thấp hoặc ắc quy đã cũ, máy đề sẽ hoạt
động yếu. Do ảnh hưởng cùng lúc của việc tăng tải khi khởi động và khả
năng cấp điện của ắc quy bị giảm có thể gây tác động lớn đến khả năng
khởi động máy, nhất là khi thời tiết lạnh, có thể dẫn đến tốc độ khởi
động trục khuỷu không đủ nhanh hoặc thậm chí không quay được trục khuỷu
0 nhận xét:
Đăng nhận xét